Những vấn đề cốt yếu của quản
lý
(Harold Koontz - Cyril Odonnell
- Heinz Weihrich)
Bản
Chất Của Việc Lập Kế Hoạch
“Chúng ta có thể làm sáng tỏ cốt lõi của công việc lập
kế hoạch bằng cách xem xét bốn khía cạnh
chủ yếu của nó: sự đóng góp của nó đối với mục đích và các mục tiêu, sự ưu tiên
cho nó trong số các nhiệm vụ của người quản lý, tính phổ biến của nó, và tính
hiệu quả của các kế hoạch.”
- Sự đóng góp của việc lập kế hoạch vào việc thực hiện mục đích và
các mục tiêu.
Mục đích của tất cả các kế hoạch và những
kế hoạch phụ trợ cho nó là nhằm hoàn thành những mục đích và mục tiêu của cơ sở.
Nguyên lý nầy xuất phát từ bản chất của một cơ sở có tổ chức, mà nó tồn tại để
thực hiện mục đích chung thông qua sự hợp tác có cân nhắc kỹ càng.
- Sự ưu tiên cho vệc lập kế hoạch.
Do những hoạt
động quản lý về mặt tổ chức, biên chế, lãnh đạo và kiểm tra được thiết lập để hỗ
trợ cho việc lập kế hoạch hoàn thành các mục tiêu của cơ sở, cho nên về mặt
logic, việc lập kế hoạch sẽ đi trước việc thực hiện toàn bộ các chức năng quản
lý khác. Mặc dầu trong thực tế mọi chức năng liên hệ mật thiết với tư cách là một
hệ thống hành động, nhưng việc lập kế hoạch
là công việc duy nhất có liên quan tới việc thiết lập các mục tiêu cần thiết
cho sự phấn đấu của cả tập thể. Ngoài ra một người quản lý cần phải lập kế hoạch
để biết loại quan hệ tổ chức nào, và chất lượng nhân viên nào là cần thiết, các
chi nhánh cần phải được chỉ đạo theo đường lối nào, và cần phải áp dụng phương
pháp kiểm tra nào. Tất nhiên, tất cà các chức năng quản lý khác cũng phải được
lập kế hoạch nếu muốn chúng có hiệu quả.
Lập kế hoạch và kiểm tra là những công
việc không thể tách biệt người anh em kiểu Xiam của quản lý. Một việc làm
không có kế hoạch thì không thể kiểm tra được, vì kiểm tra có nghĩa là giữ các
hoạt động theo đúng tiến trình bằng cách điều chỉnh các sai lệch so với kế hoạch.
Mọi ý định kiểm tra mà không có kế hoạch điều vô nghĩa, bởi vì không có một
cách thức nào để người ta có thể nói xem họ có đang đi tới nơi họ muốn hay
không (tức là kết quả của nhiệm vụ kiểm tra) nếu như trước hết họ không biết họ
muốn đi đâu (một phần trong nhiệm vụ lập kế hoạch). Như vậy các kế hoạch cung cấp
cho ta các tiêu chuẩn kiểm tra.
- Tính phổ biến của việc lập kế hoạch.
Lập kế hoạch là
một chức năng của tất cả các nhà quản lý, mặc dầu tính chất và phạm vi của việc
lập kế hoạch khác nhau đối với từng cấp
quản lý và với loại chính sách và kế hoạch do các cấp cao hơn quy định. Rõ ràng
không thể giới hạn các công việc của người quản lý để cho họ có thể thực hiện
không cần suy xét, và nếu như họ không có một trách nhiệm nào đó về kế hoạch
thì thật sự họ không phải là nhà quản lý nữa.
Nếu ghi nhận
tính phổ biến của kế hoạch, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu tại sao một số người phân
biệt giữa việc làm chính sách (đưa ra các hướng dẫn để ra quyết định) với công
việc hành chính, hoặc giữa “người quản lý” với “nhà hành chính” hay “người quản trị” . Do quyền hạn hoặc vị
trí của mình trong tổ chức, nhà quản lý này có thể lập kế hoạch nhiều hơn – hoặc
làm kế hoạch quan trọng hơn – nhà quản lý khác, hoặc kế hoạch của nhà quản lý
này có thể cơ bản hơn và dễ áp dụng đối với một phần lớn hơn của cơ sở, so với
kế hoạch của nhà quản lý khác. Tuy nhiên, tất cả những người quản lý đều phải
làm kế hoạch từ chủ tịch công ty tới người quản lý ở cấp thấp nhất. Cho dù là một
cá thể kinh doanh hay dịch vụ đến người tổ trưởng sản xuất đều phải lập kế hoạch
trong một phạm vi giới hạn và tuân theo những quy tắc và thủ tục chặc chẽ. Thật
thú vị là khi tìm hiểu về sự thỏa mãn trong công việc, thì một yếu tố cơ bản cắt
nghĩa cho sự thành công của những người quản lý ở cấp thấp nhất trong một cơ sở
là khả năng của họ để làm kế hoạch.
- Tính hiệu quả của kế hoạch.
Chúng ta đo tính hiệu quả của một kế hoạch bằng sự đóng góp của nó vào mục đích và các mục tiêu của
chúng ta, so với các chi phí và các yếu tố khác cần thiết để lập ra và thực hiện
kế hoạch. Một kế hoạch có thể tăng cường việc đạt được các mục tiêu, nhưng với
chi phí quá cao không cần thiết. Các kế
hoạch là hiệu quả nếu chúng đạt được các mục tiêu đề ra với chi phí hợp lý, khi
mà chi phí được đo không phải chỉ bằng thời gian, tiền của hay sản phẩm mà còn
bằng mức độ thỏa mãn của cá nhân hay tập
thể.